Y HỌC THỂ THAO VIỆT NAM

Y HỌC THỂ THAO VIỆT NAM

Khái niệm y học thể thao từ góc nhìn của đa lĩnh vực y sinh học 

Y học thể thao là một lĩnh vực đa mô thức – sự kết hợp của nhiều ngành y sinh học như nhân trắc học, sinh lý học, di truyền học, miễn dịch học, sinh cơ học, dược lý học và hóa sinh, nhằm nghiên cứu cơ chế phản ứng của cơ thể với vận động thể chất và hoạt động thần kinh, đồng thời phát triển các giải pháp phòng ngừa, chẩn đoán, điều trị chấn thương và tối ưu hóa hiệu suất tập luyện, thi đấu thể thao.

Góc nhìn đa lĩnh vực y sinh học 

Sinh lý học thể thao: Cơ chế thích nghi của các cơ quan, tổ chức với lượng vận động và thời gian tập luyện, gồm: Hệ cơ xương: Tăng khối cơ và mật độ xương nhờ kích thích cơ

học từ tập luyện. Hệ tim mạch: Cải thiện VO2 max (khả năng sử dụng oxy tối đa) và hiệu suất bơm máu. Hệ hô hấp: Tăng dung tích phổi và hiệu quả trao đổi khí. Phản ứng stress, điều chỉnh sinh học, gồm: Hormone đồng hóa, cortisol và adrenaline trong điều chỉnh năng lượng và phục hồi sau gắng sức.

Di truyền học và thể thao: Gen quy định tiềm năng thể thao: Đột biến gene ACTN3 liên quan đến sức mạnh cơ bắp ở vận động viên điền kinh. Gene ACE ảnh hưởng đến hiệu suất ở môn sức bền (ví dụ: môn marathon). Nguy cơ chấn thương di truyền: Gene COL5A1 liên quan đến độ đàn hồi của dây chằng và nguy cơ đứt dây chằng chéo trước (ACL).

Sinh cơ học (Biomechanics): Phân tích chuyển động: như ứng dụng cảm biến và AI để đánh giá kỹ thuật chạy/nhảy, phát hiện tư thế gây quá tải khớp gối. Thiết kế dụng cụ thể thao: Giày chạy bộ với đệm khí dựa trên nghiên cứu áp lực phân bổ lòng bàn chân.

Miễn dịch học và phục hồi: Viêm và tái tạo mô: Vai trò của cytokine (IL-6, TNF-α) trong việc sửa chữa cơ sau tổn thương. Ứng dụng tế bào gốc trung mô (MSCs) để điều trị rách sụn khớp. Ảnh hưởng của tập luyện quá sức: Suy giảm miễn dịch do căng thẳng oxy hóa và rối loạn cân bằng cytokine.

Dược lý học thể thao: Quản lý đau và viêm: Sử dụng NSAIDs (ví dụ: ibuprofen) để giảm đau cấp, nhưng cân nhắc tác dụng phụ lên tái tạo cơ. Tiêm corticosteroid tại chỗ cho viêm gân mãn tính. Chống doping: Phát hiện chất tăng cường hiệu suất (EPO, hormone tăng trưởng) bằng sắc ký khối phổ (LC-MS).

Hóa sinh và dinh dưỡng thể thao: Chuyển hóa năng lượng: Vai trò của ATP-CP, glycolysis, và chu trình Krebs trong các môn thể thao cường độ cao. Bổ sung beta-alanine để tăng carnosine cơ, giảm mệt mỏi. Dinh dưỡng tối ưu: Cân bằng macro/micronutrient (carbohydrate điện giải, BCAA) cho phục hồi cơ.

Công nghệ y sinh tiên tiến: Wearable biosensors: Theo dõi lactate máu, nhịp tim, nhiệt độ cơ thể thời gian thực để điều chỉnh cường độ tập. Kỹ thuật hình ảnh: MRI khuếch tán (DTI) đánh giá tổn thương sợi cơ, PET scan phân tích chuyển hóa glucose trong cơ.

Vật liệu sinh học: Sụn nhân tạo từ hydrogel hoặc scaffold collagen phủ tế bào sụn tự thân.

Vi sinh vật (Microbiome) và thể thao: Vai trò của microbiome đường ruột: Vi khuẩn sản xuất axit béo chuỗi ngắn (SCFA) giúp giảm viêm và cải thiện hấp thu dinh dưỡng. Probiotics cải thiện chức năng miễn dịch và sức bền ở vận động viên.

Tóm lại, từ góc nhìn đa lĩnh vực y sinh học, y học thể thao là một bản hòa tấu phức tạp của các cơ chế sinh học, từ phân tử đến hệ thống cơ quan. Y học thể thao không chỉ giải quyết vấn đề sức khỏe thông thường, mà còn thúc đẩy giới hạn sinh học của con người thông qua sự hội tụ của di truyền, công nghệ và khoa học cơ bản. Sự phát triển của lĩnh vực này phụ thuộc vào khả năng liên kết dữ liệu đa tầng — từ gene đến biomechanics — để tạo ra giải pháp cá thể hóa, giúp vận động viên không chỉ vượt qua chấn thương mà còn đạt đến đỉnh cao tiềm năng

Các nội dung nhiệm vụ Y học thể thao

1) Tham mưu xây dựng hệ thống thiết chế, quản lý YHTT; 2) Kiểm tra, xác nhận đủ sức khỏe thi đấu cho VĐV và người tập thể dục thể thao (TDTT); 3) Kiểm tra y sinh, y học TDTT phục vụ huấn luyện, trước giải đấu TDTT; 4) Giám định khoa học sức khỏe VĐV; 5) Nghiên cứu và đào tạo y học cơ bản về y sinh học TDTT; 6) Nghiên cứu và đào tạo y học cơ sở về y sinh học TDTT; 7) Nghiên cứu và đào tạo về y sinh học TDTT; 8) Nghiên cứu và đào tạo bệnh học TDTT (khám, chữa bệnh, điều trị chấn thương, phục hồi chức năng cho VĐV, người tập TDTT), gồm: Bệnh lý cấp cứu thể thao;  Bệnh lý chấn thương thể thao; Bệnh lý tim mạch thể thao; Bệnh lý nội khoa thể thao; Bệnh lý ngoại khoa thể thao; Bệnh lý nghề nghiệp đặc thù thể thao; Điều trị bệnh học thể thao; Dược học thể thao…;9) Tăng cường thể lực thể chất và tinh thần cho VĐV và người tập TDTT; 10) Mệt mỏi và hồi phục thể lực thể chất, tinh thần sau tập luyện, thi đấu; 11) Thực phẩm chức năng trong tập luyện, thi đấu; 12) Phòng chống, kiểm tra Doping trong thi đấu, tập TDTT; 13) Công tác y tế đội tuyển và tập luyện, thi đấu; 14) Y học cổ truyền trong YHTT; 15) Thể dục thể thao chữa bệnh.

Y học thể thao Việt Nam

Lịch sử hình thành: Từ hàng ngàn năm nay, các thầy thuốc dân gian, y học dân tộc (YHDT) đã sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp khám, chữa bệnh cho người tập luyện, thi đấu TDTT như phương pháp không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, dưỡng sinh, khí công, thái cực quyền…) để tăng cường thế lực, thể chất; phương pháp dùng thuốc (thuốc nam, thuốc bắc) để chữa chấn thương, bồi bổ cở thể, nâng cao thể lực và phục hồi thể lực, giải độc. Như vậy, dân tộc Việt Nam đã sử dụng YHDT thực hiện nhiệm vụ của YHTT hàng ngàn năm qua. Tuy nhiên, không có hệ thống thiết chế quản lý, lý luận, phương pháp, biện pháp khoa học đầy đủ để nghiên cứu, phát triển các kinh nghiệm của YHDT để thực hiện các nhiệm vụ của YHTT.

YHTT du nhập vào Việt Nam những năm 1980 của thế kỷ XX. Tiền thân là Ban y sinh thuộc Viện Khoa học TDTT. Ban y sinh sử dụng hệ thống lý luận, các phương pháp, biện pháp từ các nước phương Tây vào nghiên cứu, ứng dụng công tác tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện, thi đấu tdtt. Đến năm 1998, Ban Y sinh phát triển thành Trung tâm YHTT với nhiệm vụ kết hợp YHTT tiên tiến với y học nước Việt Nam, đặc biệt đưa y học cổ truyền khám, chữa bệnh cho VĐV và người tập luyện tdtt, nghiên cứu, ứng dụng vào công tác tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện, thi đấu TDTT. Đến năm 2003, bệnh viện Thể thao Việt Nam được xây dựng và sử dụng một phần vào phục vụ công tác y tế cho SEA Games 22 năm 2003 tại Việt Nam. Đến năm 2007, bệnh viện Thể thao Việt Nam hoạt động đầy đủ như bệnh viện đa khoa hạng II với định hướng mũi nhọn “Cơ –xương- khớp và y học thể thao”.

Những hạn chế của nền Y học thể thao Việt Nam: Việt Nam chưa có hệ thống YHTT về mặt pháp lý, nhưng thực tế có nhiều đơn vị, tổ chức có triển khai ít nhiều trong số các nhiệm vụ YHTT. Tại các Trung tâm Huấn luyện Thể thao quốc gia (HLTTQG) có các phòng Khoa học và YHTT của các Trung tâm HLTTQG này (tại thành phố Hà Nội, tại thành phố Hồ Chí Minh, tại thành phố Đà Nẵng và tại thành phố Cần Thơ) đã được thành lập. Tuy nhiên, Các phòng Khoa học và YHTT của các Trung tâm HLTTQG tham gia khiêm tốn trong tư vấn, khám, chữa bệnh ban đầu – chuyển tuyến cho VĐV, huấn luyện viên (HLV) các đội tuyển, nhưng đều không có giấy phép hoạt động khám, chữa bệnh theo quy định của Bộ Y tế. Các Phòng khoa học và YHTT vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng và tính pháp lý của độ ngũ nhân lực y tế, trang thiết, hệ thống y tế theo quy định của Bộ Y tế. Một số nhiệm vụ về YHTT cũng được các phòng Khoa học và YHTT phối hợp, tham gia, tổ chức triển khai, nhưng không có hoặc không đầy đủ hệ thống, thiết chế và hệ thống văn bản hướng dẫn triển khai chức năng YHTT như tuyển chọn VĐV, HLV; kiểm tra sức khỏe VĐV, HLV; đánh giá trình độ luyện tập VĐV, HLV; Nghiên cứu khoa học YHTT; Công tác y tế đội tuyển; Dinh dưỡng thể thao và kiểm soát Doping….

Tại các Trung tâm Huấn luyện và Đào tạo (HLĐT) TDTT của các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) của các tỉnh, thành: các Bộ phận y tế được thành lập trong các Trung tâm này. Các bộ phận y tế này cũng chỉ tham gia, phối hợp với Phòng Quản trị – Kinh doanh thực hiện một số nhiệm vụ nhỏ lẻ, thời vụ về YHTT như tuyên truyền chế độ, chính sách YHTT; tư vấn, khám, chữa bệnh ban đầu và chuyển tuyến trên choVĐV, HLV; tham gia y tế các Giải thể thao; Khám sức khỏe VĐV, HLV; Đánh giá trình độ luyện tập VĐV, HLV; Nghiên cứu khoa học YHTT; dinh dưỡng thể thao và phòng chống Doping.

Tại một số bệnh viện công và tư: sự ra đời của các Trung tâm YHTT hoặc các Khoa YHTT của một số bệnh viện trong toàn quốc như bệnh viện Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện Nhân dân 115, bệnh viện Quân y 175, bệnh viện Quân y 108, bệnh viện Tâm Anh, bệnh viện Vinmec…Tuy nhiên, các Trung tâm YHTT, các khoa YHTT này chỉ mới dừng lại ở mục đích sử dung kỹ thuật khám, chữa bệnh theo danh mục kỹ thuật của Bộ Y tế phê duyệt để khám, chữa bệnh cho VĐV và người tập luyện TDTT – được coi là YHTT. Mục đích gắn YHTT vào tên Trung tâm, khoa… nhằm làm phương tiện truyền thông, quảng cáo thương hiệu của các đơn vị y tế này. Các đơn vị y tế này mới chỉ dừng lại chức năng khám, điều trị nội khoa, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, phẫu thuật các chấn thương cơ xương khớp cho VĐV, HLV, còn các chức năng, nhiệm vụ khác của YHTT các bệnh viện này chưa đề tổ chức thực hiện.

Các Hội Khoa học TDTT và Hội sinh lý học TDTT có chức năng nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề về khoa học trong YHTT, các vấn đề sinh lý học tập luyện, thi đấu TDTT. Hội YHTT thành phố Hồ Chí Minh (thành lập năm 1998) có chức năng, nghiên cứu khoa học, ứng dụng kỹ thuật khám, chữa bệnh, phòng tránh chấn thương, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, nội cơ-xương- khớp, ngoại chấn thương chỉnh hình chi thể.

Các Bộ môn y sinh học TDTT của các Trường Cao đẳng, Đại học về TDTT chủ yếu nghiên cứu, đào tạo, thử nghiệm về sinh lý, sinh hóa, sinh cơ TDTT, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng vận động, hồi phục thể lực, dinh dưỡng, kiểm tra, vệ sinh tập luyện TDTT và phòng chống Doping, không đào tạo kỹ thuật khám, chữa bệnh và các nhiệm vụ khác về YHTT.

Để quản lý, chỉ đạo, vận hành công tác YHTT tại Việt Nam, chỉ có Ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch ban hành là chủ yếu, không có văn bản nào của Bộ Y tế, của Bộ Giáo dục & Đào tạo, của Bộ Nội vụ.

Trong chưa tới 100 văn bản quản lý hiện hành liên quan y sinh y học thể thao, thì chỉ có 01 văn bản của Đảng, 01 văn bản Quốc hội, 08 văn bản Chính phủ, 49 văn bản của Bộ, 04 văn bản của Tổng cục TDTT (nay là Cục TDTT). Về mức độ thủ tục triển khai văn bản chỉ đạo, quản lý thì cấp quản lý trực tiếp Tổng cục TDTT 6,3% và chỉ ban hành cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các đơn vị mà không đi vào chỉ đạo, quản lý công tác YHTT. Các văn bản quản lý, chỉ đạo cấp Bộ chiếm 77,77% tập trung về an toàn tập luyện, thi đấu, tiếp đến là dinh dưỡng, phòng chống Doping, giám định khoa học sức khỏe VĐV, khám, chữa bệnh cho VĐV, HLV, nghiên cứu khoa học và đào tạo. Hệ thống thiết chế, kim chỉ nam để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ YHTT từ trung ương đến địa phương thì không có văn bản về hệ thống quản lý YHTT, về truyền thông, tuyên truyền về công tác YHTT.

Cho đến nay đội ngũ chuyên gia về YHTT ngày càng ít. Từ năm 2004-2010, có 20 bác sỹ chuyên khoa 1 YHTT được Viện khoa học TDTT kết hợp với Học viện Quân y 103 đào tạo, nay chỉ còn vài bác sỹ làm việc. Hiện tại, toàn quốc còn dưới 20 bác sỹ YHTT được đào tạo có bằng cấp từ cấp đại học trở lên. Số đang phục vụ chăm sóc sức khỏe, khám, chữa bệnh cho VĐV và người tập luyện TDTT tại các Trung tâm HLTTQG và tại các câu lạc bộ nghiệp dư là từ các nguồn: y sinh cử nhân y sinh YHTT thao do các trường Đại học TDTT, Đại học Sư phạm TDTT đào tạo; do bệnh viện Thể thao Việt Nam đào tạo cấp chứng chỉ; từ các chuyên ngành y khoa khác từ các trường Trung cấp, Cao đẳng, Đại học y hoặc thậm chí từ bệnh viện Y học cổ truyền các cấp, bệnh viện Châm cứu trung ương hoặc Hội Đông y; số ít là từ nguồn y sinh YHTT ngoài nước hoặc chuyên gia YHTT của các liên đoàn, hiệp hội thể thao.

Số cán bộ có chứng chỉ hành nghề (CCHN) y tế chủ yếu là bệnh viện Thể thao Việt Nam có 138, Trung tâm Doping – YHTT có 7, Trung tâm HLTTQG có 8, Viện Khoa học TDTT có 04, số còn lại không có CCHN thì có tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp khám, chữa bệnh cho VĐV, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo YHTT.

Giải pháp xây dựng và phát triển Y học thể thao Việt Nam

Để giải giải quyết hạn chế YHTT hiện nay và xây dựng hệ thống YHTT Việt Nam đáp ứng nhiệm vụ mới, cần phải có chiến lược, kế hoạch lâu dài hệ thống, đồng bộ để xây dựng, hoàn thiện hệ thống thiết chế quản lý, tổ chức thực hiện trong:

1) Việc đưa YHTT vào Luật TDTT và Luật khám, chữa bệnh (KCB), Luật Giáo dục và Đào tạo và các văn bản pháp quy phạm dưới các Luật này, nhất là các văn bản quy phạm dưới Luật KCB YHTT như: Mã ngạch chuyên ngành YHTT; Mạng lưới/Hiệp hội YHTT. 

2) Thiết lập và đưa mạng lưới đào tạo, thực hành, áp dụng YHTT toàn quốc, hòa nhập với mạng lưới đào tạo nguồn lực y tế Việt Nam, như: Bổ sung mã ngành đào tạo, thành lập và đưa vào hệ thống đào tạo chuyên ngành YHTT ở các bậc để đào tạo y sinh học TDTT, điều dưỡng, kỹ thuật viên, bác sỹ thể thao; Quy định mã ngạch – chức danh nghề nghiệp cho nhân lực KCB về YHTT…, đưa chuyên môn YHTT là một chuyên ngành trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của ngành y tế;

3) Thực hiện đồng thời đồng bộ các nội dung sau hệ thống YHTT phối hợp với ngành Y tế, các ngành khác đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, chức năng, trong trách sự nghiệp chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể chất nhân dân và góp phần nâng cao thành tích thi đấu của VĐV tại các giải thể thao trong nước, khu vực và quốc tế. Các nội dung cần tổ chức triển khai hoàn thiện là: Quy định tiêu chí, tiêu chuẩn về xây dựng cơ bản cho KCB YHTT; Quy định phối hợp liên ngành TDTT-Y tế – Giáo dục & Đào tạo – Công an – Quốc phòng; Quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn kỹ thuật trang thiết bị y tế- dụng cụ-sân bãi cho KCB YHTT; Quy định tiêu chí, tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn tập luyện, thi đấu TDTT; Quy định điều kiện hành nghề/hoạt động KCB YHTT; Quy định danh mục kỹ thuật KCB YHTT, quy trình kỹ thuật KCB YHTT; Quy định tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức kinh tế-kỹ thuật KCB YHTT; Quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức dinh dưỡng và thực phẩm chức năng; Quy đình về kiểm soát, phòng chống Doping…..

PGs.Ts.Bs. Võ Tường Kha (Trưởng Bộ môn Y học thể thao – Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội/ Phó Chủ tịch Hội Khoa học Thể thao Việt Nam)

Leave Comments

0913504755
0913504755